Ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ ”Tự diễn biến”, ”Tự chuyển hoá” để xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch vững mạnh

Thượng tướng - Viện sĩ Nguyễn Huy Hiệu

Thượng tướng - Viện sĩ , TS. Nguyễn Huy Hiệu

Thực hiện âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” (DBHB) chống phá cách mạng Việt Nam, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, phản động đã và đang đẩy mạnh nhiều hoạt động thâm độc, nhằm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” gây chia rẽ, mất đoàn kết từ bên trong nội bộ Đảng và Nhà nước ta; khi thời cơ đến chúng sử dụng tổng hợp các biện pháp cả vũ trang và phi vũ trang; kết hợp “nội công, ngoại kích”, trong đánh ra, ngoài đánh vào, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN), chuyển hoá Việt Nam theo con đường tư bản. Đặc biệt trong thời điểm hiện nay, khi Đảng ta đang tiến hành các bước triển khai thực hiện xây dựng chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khoá XI) thì các thủ đoạn thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” càng được chúng thực hiện ráo riết hơn.

Bài học từ sự tan rã của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu cho thấy, nếu không chủ động phòng ngừa, không ngăn chặn, phòng chống ngay tư tưởng “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” thì cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân sẽ bị tác động, bị phân hóa, tạo ra những hiệu ứng tiêu cực về mặt tư tưởng chính trị, tâm lý và hệ quả của việc chủ quan, mất cảnh giác với những thủ đoạn thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyến hoá” là không lường hết được. Trong những năm qua, tùy từng đối tượng và phạm vi tác động mà chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch phản động trong và ngoài nước đã sử dụng thủ đoạn, nội dung, hình thức và phương pháp thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” khác nhau, nhưng chúng luôn đặt trọng tâm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” vào cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ và các lực lượng vũ trang. Bởi đó là nơi hoạch định ra đường hướng, chủ trương, chính sách, pháp luật của nước ta. Khi đường hướng không chuẩn thì sự chệch hướng XHCN của đất nước là khó tránh khỏi. Khi đường lối, chủ trương không vì cuộc sống, lợi ích của nhân dân thì niềm tin của quần chúng đối với Đảng, với Nhà nước, với chế độ sẽ bị xói mòn.

Như chúng ta đã biết: “DBHB” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có mối quan hệ khăng khít, không tách rời; trong đó, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là thủ đoạn và cũng là mục tiêu của chiến lược “DBHB” mà các thế lực thù địch đang tiến hành đối với cách mạng Việt Nam. Bởi vậy, phòng, chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là vấn đề có ý nghĩa quyết định để làm thất bại chiến lược “DBHB” của các thế lực thù địch. Đồng thời đó cũng là nhiệm vụ cấp bách về công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng mà Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) đặt ra.

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về bản chất là một quá trình suy thoái từ bên trong của lực lượng cách mạng; một mặt, do tác động khách quan, như: mặt trái của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và do âm mưu, thủ đoạn “DBHB” của các thế lực thù địch vẫn tiếp tục đi sâu vào từng tổ chức, con người; mặt khác, là từ nguyên nhân chủ quan do một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Trong hai nguyên nhân đó, thì nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Thực tiễn ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu những thập kỷ cuối thế kỷ XX cho thấy: nếu ban lãnh đạo các Đảng cộng sản không “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội; quần chúng nhân dân và lực lượng vũ trang kiên quyết bảo vệ đảng, nhà nước và chế độ XHCN thì các thế lực thù địch không thể xóa bỏ được chế độ XHCN. Đúng như V.I. Lênin đã căn dặn: không ai có thể đánh đổ được chúng ta, trừ chính những sai lầm của chúng ta. Như vậy, cần phải thống nhất nhận thức: phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thực chất là phòng ngừa, triệt tiêu nguyên nhân chủ quan dẫn đến thoái hóa, biến chất là vấn đề có ý nghĩa sống còn.

Hiện nay, tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên có chức, có quyền, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng, rơi vào chủ nghĩa cơ hội, thực dụng, cá nhân ích kỷ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc… như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI chỉ ra, là những biểu hiện cụ thể của một bộ phận cán bộ, đảng viên bị thoái hóa, cũng là những biểu hiện cụ thể của nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong nội bộ của Đảng. Do đó, cuộc đấu tranh phòng, chống “DBHB” và ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó chặt chẽ với nhau; trong đó, ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta giữ vai trò quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh phòng chống “DBHB”.

Nhận thức rõ điều đó, Đảng ta chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng… Trong nội bộ những biểu hiện xa rời mục tiêu của CNXH, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” có những diễn biến phức tạp”(1). Bởi vậy, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã ra Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, không những đã tập trung phân tích làm rõ nguyên nhân của tình trạng đó, mà còn xác định mục tiêu, phương châm, giải pháp để khắc phục. Tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ những biểu hiện sự suy thoái về tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên, thể hiện ở chỗ: Phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường XHCN; dao động, thiếu niềm tin, sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, phụ họa theo những nhận thức sai, quan điểm lệch lạc; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao; không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng... Sự suy thoái về đạo đức, lối sống gắn liền với tư tưởng thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, lãng phí; bè phái, cục bộ, mất đoàn kết; phong cách quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân; lối sống xa hoa, hưởng lạc… trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng đó là, sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu; sa vào chủ nghĩa cá nhân, quên trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước dân; ngại khó, ngại khổ, ngại va chạm; bất chấp đạo lý, dư luận; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm của một bộ phận cán bộ, đảng viên; nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý không gương mẫu, nói không đi đôi với làm.

Để ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cần phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh (QP-AN) và đối ngoại.

Trước hết, trên lĩnh vực chính trị-tư tưởng: việc đấu tranh bảo vệ, giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là điều kiện tiên quyết. Toàn Đảng cần kiên trì tiến hành cuộc đấu tranh phê phán hệ tư tưởng tư sản, tư tưởng xã hội - dân chủ, chủ nghĩa thực dụng. Cần kiên quyết bảo vệ Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng, đặc biệt là mục tiêu, lý tưởng, con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn; phát triển đường lối đổi mới theo định hướng XHCN. Đấu tranh bảo vệ nguyên tắc tổ chức và hoạt động, mối quan hệ giữa các thiết chế quyền lực của nhà nước XHCN; có biện pháp thiết thực củng cố và phát triển mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với các thành tố trong hệ thống chính trị và nhân dân. Phê phán, bác bỏ các quan điểm tư tưởng và ý đồ thực hiện chủ nghĩa đa nguyên chính trị, chế độ đa đảng đối lập. Phát hiện kịp thời những tư tưởng đối lập do các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội trong bộ máy lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang; xử lý kịp thời và nghiêm minh theo pháp luật đối với các hoạt động phá hoại, không để các thế lực thù địch tạo dựng ngọn cờ tập hợp được lực lượng. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền các cấp; xử lý đúng đắn các mâu thuẫn nội bộ trong các tầng lớp nhân dân, không để tích tụ, tạo tâm lý bất bình trong xã hội đối với các cơ quan công quyền. Triển khai có hiệu quả việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, kiên quyết đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng, chủ nghĩa cơ hội, thực dụng, cá nhân ích kỷ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc trong một bộ phận cán bộ, đảng viên...

Hai là, về lĩnh vực kinh tế: cần tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, tăng cường xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, có cơ cấu hợp lý, có sức mạnh nội sinh, bền vững; có khả năng cạnh tranh cao để chủ động hội nhập trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế; có khả năng đứng vững, vượt qua được những biến động bất thường, khủng hoảng của nền kinh tế thế giới. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ văn hóa, thực hiện công bằng xã hội và tăng cường QP-AN. Cần tiếp tục đấu tranh bảo vệ những quan điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới kinh tế của Đảng, đặc biệt là bảo vệ đường lối phát triển kinh tế-xã hội của Đảng. Kịp thời phát hiện và đấu tranh có hiệu quả với những âm mưu, thủ đoạn lợi dụng các quan hệ kinh tế, các công cụ và thiết chế tài chính, tiền tệ quốc tế... để chi phối, kiểm soát, khống chế, chuyển hóa nền kinh tế Việt Nam thành nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Trong lĩnh vực này, cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và giữ vững phẩm chất đạo đức, tư cách của người cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ chủ trì lãnh đạo, quản lý kinh tế, không để chủ nghĩa thực dụng, “chủ nghĩa cá nhân” chi phối.

Ba là, về văn hóa - xã hội: cần quyết tâm bảo vệ đường lối xây dựng và phát triển văn hóa - xã hội của Đảng, chủ trương và chính sách văn hóa - xã hội của Nhà nước; bảo vệ, xây dựng và phát triển hệ thống giá trị, những chuẩn mực văn hóa, đạo đức XHCN Việt Nam, tinh hoa truyền thống, bản sắc văn hoá dân tộc. Chống lợi dụng mở cửa, giao lưu văn hóa để quảng bá, tuyên truyền, phổ biến hệ thống giá trị, những chuẩn mực đạo đức, lối sống của phương Tây. Bảo vệ đường lối, quan điểm, chủ trương và chính sách đổi mới giáo dục - đào tạo của Đảng và Nhà nước; chống lợi dụng giao lưu về giáo dục - đào tạo để chuyển hóa tư tưởng, ý thức của một số trí thức, sinh viên, học sinh, thế hệ trẻ mang văn hoá đồi truỵ, độc hại vào Việt Nam. Chống lợi dụng mở cửa để thúc đẩy biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp theo mô hình xã hội phương Tây. Giải quyết đúng đắn, kịp thời những mâu thuẫn nội bộ trong nhân dân. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và sự đồng thuận giữa các tầng lớp xã hội, các vùng, miền. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu theo Kết luận của Hội nghị Trung ương 5 (khoá XI) vừa qua. Thực hiện tốt chính sách thương binh, liệt sĩ, người có công với nước, chính sách dân tộc, tôn giáo; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở các vùng chiến lược, các địa bàn trọng yếu. Mở rộng dân chủ trong xã hội để tạo sự đồng thuận, đoàn kết dân tộc, tôn giáo; chống chia rẽ, ly khai. Khi xuất hiện những “điểm nóng” mâu thuẫn, xung đột xã hội, cần giải quyết, xử lý đúng đắn, kịp thời trên cơ sở pháp luật, hài hòa với truyền thống, đạo lý dân tộc.

Bốn là, về vấn đề QP-AN và đối ngoại: cần tập trung bảo vệ đường lối, quan điểm, chủ trương và chính sách QP-AN của Đảng và Nhà nước; xây dựng lực lượng, tiềm lực, thế trận QP-AN vững mạnh. Giữ vững bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang, đặc biệt là bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Xây dựng Quân đội và Công an vừa là lực lượng chính trị, vừa là lực lượng quân sự, an ninh tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN. Bảo vệ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước, nhân dân với Quân đội và Công an. Chống “phi chính trị hóa” Quân đội và Công an; chống chia rẽ trong nội bộ lực lượng vũ trang. Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ; chống địch cài cắm. Bảo vệ đường lối, chủ trương chiến lược, chính sách đối ngoại QP-AN của Đảng và Nhà nước; phát triển các quan hệ đối ngoại song phương và đa phương phù hợp với lợi ích của đất nước; giữ vững độc lập, tự chủ trong quan hệ đối ngoại; củng cố tình đoàn kết, hữu nghị giữa Việt Nam với các nước láng giềng và khu vực, với các tổ chức quốc tế; tăng cường ảnh hưởng, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế; giải quyết đúng đắn mối quan hệ đối ngoại và đối nội, không để nước ngoài tạo cớ can thiệp. Giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Giải quyết đúng đắn, xử lý mềm dẻo những bất đồng, tranh chấp với các nước láng giềng, trong khu vực và quốc tế, kịp thời xử trí các tình huống không để nước ngoài tạo cớ can thiệp; đẩy lùi nguy cơ chiến tranh. Quản lý chặt chẽ hoạt động của các cơ quan ngoại giao nước ngoài, các tổ chức phi chính phủ (NGO), các tổ chức quốc tế tại Việt Nam.

Để chống lại thủ đoạn thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, phản động cần giữ vững và tăng cường khả năng đề kháng trong nội bộ. Xây dựng các tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững chắc là cơ sở để ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ tác động từ bên ngoài. Mọi âm mưu, thủ đoạn thúc đẩy “tự diễn biến” của các thế lực thù địch sẽ bị vô hiệu hóa, nếu nội bộ Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị vững mạnh. Theo đó, đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Hệ thống chính trị, nhất là Đảng và Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ phải được thường xuyên chăm lo xây dựng thực sự vững mạnh. Cuộc đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí phải được tăng cường, kiên quyết loại bỏ những con “sâu mọt” ra khỏi bộ máy cơ quan Đảng, Nhà nước, làm trong sạch các tổ chức Đảng, bộ máy chính quyền; đẩy mạnh đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Tuy nhiên, việc tăng sức đề kháng, chủ động ngăn chặn, phòng ngừa nếu không kết hợp chặt chẽ với chủ động tiến công làm thất bại những mưu đồ đen tối, những thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt của các thế lực thù địch thì hiệu quả đấu tranh sẽ không cao, kẻ thù sẽ có thời cơ và điều kiện để tổ chức chống phá quyết liệt hơn. Khi ấy, việc phòng ngừa, ngăn chặn có tích cực, chủ động đến đâu vẫn khó đánh bại. Kết hợp chặt chẽ giữa chủ động ngăn chặn, phòng ngừa từ xa với chủ động tiến công làm thất bại âm mưu và ý đồ chống phá của các thế lực thù địch từ trong “trứng nước”, là phương châm đúng đắn, thể hiện rõ tư tưởng cách mạng tiến công trong chỉ đạo cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ “tự diễn biến, “tự chuyển hoá” trong nội bộ Đảng. Yêu cầu cơ bản khi thực hiện phương châm này là, cùng với tích cực, chủ động giữ vững ổn định bên trong, phòng ngừa, ngăn chặn các tác động tiêu cực từ phía các thế lực thù địch. Đồng thời phải có những biện pháp hữu hiệu tích cực, chủ động tổ chức các đợt sinh hoạt học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình của mỗi cán bộ, đảng viên bằng nhiều hình thức, quy mô như trong các đợt học tập Nghị quyết Trung ương lần thứ 4 và Kết luận của Hội nghị Trung ương 5 (khoá XI) vừa qua./. 


 

Thượng tướng, Viện sĩ, TS. Nguyễn Huy Hiệu

------------------

(1) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, H, 2011, tr.292.

Theo Tạp chí Tuyên giáo

Các tin khác